Số lượt xem: 436
Ban Quản lý công trình điện (nay là Ban Quản lý dự án các công trình điện miền Trung - CPMB) được thành lập theo Quyết định số 842/NL-TCCB ngày 07-07-1988 của Bộ trưởng Bộ Năng lượng trên cơ sở Ban Quản lý nhà máy Nhiệt điện Cầu Đỏ trực thuộc Công ty Điện lực 3 (nay là Tổng công ty Điện lực Miền Trung) vào thời điểm quân dân cả nước đã đi được một nửa chặng đường của đường hướng mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986 -1990) đã vạch ra, cũng là thời điểm ngành Điện lực Việt Nam đi được một nửa chặng đường thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 1986-1990 (gọi tắt là Tổng sơ đồ II). Những khởi đầu thuận lợi kết hợp tinh thần đoàn kết và trách nhiệm cao, tâm huyết với nghề, năng động, sáng tạo của tập thể CPMB và sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo, đã giúp cho CPMB trưởng thành nhanh chóng và vững vàng.
Bài I: Giai đoạn 1988 – 1994
Xoá đói điện cho miền Trung
Đường lối đổi mới đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đã thực sự trở thành hiệu lệnh cho quân và dân cả nước tiến lên trong sự nghiệp cải cách, mở cửa và đổi mới, trong đó có ngành Điện lực Việt Nam. Ngày 19-5-1987, Liên Xô và Việt Nam ký Hiệp định Hợp tác chế tạo thiết bị điện 35kV trở xuống. Đây là hiệp định có ý nghĩa to lớn: Lần đầu tiên Liên Xô cung cấp cho Việt Nam một khối lượng vật tư, nguyên vật liệu điện, thiết bị kỹ thuật điện để Việt Nam chế tạo các máy biến áp, sản xuất dây nhôm, các vật tư, phụ tùng…phục vụ yêu cầu xây dựng lưới điện phân phối và điện khí hoá nông thôn. Ngày 06-11-1979, Công trình Thuỷ điện Hoà Bình khởi công xây dựng và theo kế hoạch tiến độ sẽ hoàn thành đưa vào vận hành Tổ máy 1 vào cuối năm 1988. Đây là cơ hội để ngành Điện thực hiện giải pháp xoá đói điện cho miền Trung.

Trở lại những năm đầu thập niên 80 của Thế kỷ 20, đất nước ta vô cùng khó khăn. Cuộc chống Mỹ cứu nước vĩ đại vừa thắng lợi, chưa bao lâu lại xảy ra chiến tranh biên giới. Quân dân ta phải đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Đời sống nhân dân mỗi ngày một khó khăn. Khúc ruột miền Trung là vùng chiến tranh suốt 30 năm nên không có công trình điện qui mô lớn nào được xây dựng mà chỉ có các cơ sở điện lực nhỏ bé, phân tán phục vụ ánh sáng đô thị và nhu cầu quân sự. Nên từ năm 1975 đến năm 1985, việc cung cấp điện ở miền Trung vô cùng khó khăn, luôn phải chống đỡ với tình hình thiếu điện ngày càng nghiêm trọng. Giai đoạn này, đã xây dựng đưa vào hoạt động nhà máy điện Đồng Hới (công suất 14kW), còn lại tập trung tiếp nhận, lắp đặt các tổ máy phát điện Diesel được Bộ Điện Than điều động từ miền Nam ra, miền Bắc vào, phục hồi các nhà máy hỏng hiện có, nhưng cũng đủ để thay thế cho các máy phát đã hỏng phải thanh lý qua các năm. Các nguồn điện như nhiệt điện Bồng Sơn (công suất 20kW), chuẩn bị xây dựng rồi hủy bỏ; nhiệt điện Đà Nẵng (công suất 120kW) khởi công sau 4 năm cũng chỉ mới san ủi xong mặt bằng rồi cũng hủy bỏ. Những người làm điện ở miền Trung đã bỏ ra nhiều công sức, vất vả, gian khổ nhưng trong 13 năm dài phấn đấu vẫn chưa đưa miền Trung thoát ra khỏi tình trạng thiếu điện, thậm chí tình trạng thiếu điện ngày càng trở nên gay gắt hơn và kéo dài. Trước nỗi bức xúc đó, ngành Điện đã tổ chức Hội nghị với Chủ tịch các tỉnh/thành phố khu vực miền Trung, Tây Nguyên kiến nghị lên Bộ Năng lượng, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), đề nghị giải quyết nhanh chóng các phương án cung cấp điện trước mắt cũng như lâu dài cho miền Trung.

Tháng 6-1986 tại Đà Nẵng, Lãnh đạo Bộ Năng Lượng đã họp khẩn cấp với Lãnh đạo Công ty Điện lực 3, Công ty Xây lắp đường dây & trạm 5 (sau đó hợp nhất với Công ty xây lắp đường dây & trạm 3 thành Công ty xây lắp điện 3 tháng 2-1988) và Ban Quản lý nhà máy nhiệt điện Cầu Đỏ để giao nhiệm vụ đầu tư xây dựng khẩn cấp các công trình trạm biến áp và Hệ thống truyền tải điện 110-220kV tuyến Vinh – Quảng Ngãi để truyền tải điện từ nhà máy Thủy điện Hòa Bình vào miền Trung. Năm 1987, các công trình trạm biến áp và đường dây tải điện 110-220kV tuyến Vinh - Đồng Hới - Đà Nẵng lần lượt được khởi công xây dựng. Ban Quản lý dự án các công trình điện Miền Trung được thành lập ngày 7-7-1988, theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Năng lượng trên cơ sở Ban Quản lý nhà máy Nhiệt điện Cầu Đỏ trực thuộc Công ty Điện lực 3 (nay là Tổng công ty Điện lực Miền Trung) thực hiện nhiệm vụ chính là đại diện Công ty Điện lực 3 quản lý dự án đầu tư xây dựng khẩn cấp các công trình trạm biến áp và đường dây tải điện 110 – 220kV tuyến Vinh – Quảng Ngãi vào vận hành để truyền tải điện từ nhà máy Thủy điện Hòa Bình vào miền Trung, vật tư thết bị được cung cấp chủ yếu thông qua Hiệp định vay nợ Liên Xô-Việt Nam và quản lý điều hành các dự án phát triển lưới điện từ 35kV, 110kV và 220kV khu vực miền Trung, Tây Nguyên.

Vào thời điểm những năm 80 của Thế kỷ 20, với hơn 600km đường dây từ Vinh (Nghệ An) vào đến Quảng Ngãi, đi qua 8 tỉnh mền Trung, công trình phải băng qua các khu vực có địa hình phức tạp và hiểm trở, rừng nguyên sinh, đèo cao, suối sâu, vượt sông rộng, qua nhiều vùng đồng lầy cát chảy với khí hậu khắc nghiệt, nhiều nơi còn bom mìn để lại trong chiến tranh. Song với nhiệm vụ được giao và nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đứng trước nhiều khó khăn thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội, Lãnh đạo Ban Quản lý các công trình điện cùng với CBCNV không quản ngại khó khăn, năng động sáng tạo, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành công trình, đưa điện lưới quốc gia vào miền Trung nhằm phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất và ổn định đời sống, sinh hoạt của nhân dân: Ngày 31-7-1990, điện lưới quốc gia vào đến trạm 110kV Xuân Hà, Đà Nẵng; tháng 12-1991, điện lưới quốc gia vào đến Quảng Ngãi khi trạm 110kV Quảng Ngãi chính thức vận hành ngày 26-1-1992.

Kể từ năm 1991, thời điểm Ban Quản lý công trình điện được thành lập trên cơ sở tách ra từ Sở Truyền tải Điện 1 về thuộc Công ty Điện lực 3, đặc biệt từ sau khi Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 đi vào vận hành, hệ thống lưới điện Miền Trung chuyển biến nhanh chóng, đánh đấu một bước phát triển của lưới điện miền Trung. Giai đoạn này, việc cung cấp điện năng để phát triển kinh tế-xã hội khu vực miền Trung (12 tỉnh, thành phố từ Quảng Bình đến Khánh Hoà và vùng Tây Nguyên) trước đây, chủ yếu dựa vào nguồn điện Diezel và một số nhà máy thuỷ điện nhỏ nằm rải rác ở các tỉnh, nay đã chuyển tải với sản lượng khoảng 300 triệu kWh qua Hệ thống đường dây 110-220kV Vinh - Quảng Ngãi và các trạm biến áp. Đằng sau những con số này là những dự cảm lớn lao về sứ mệnh và những thách thức đối với Ban Quản lý công trình điện.
Lưới điện phân phối 35kV do Ban Quản lý công trình điện quản lý dự án:
- Đường dây 35kV Quảng Hòa – Minh Cầm và TBA 35kV Minh Cầm, đóng điện năm 1994; Đường dây 35kV Cam Lộ - Khe Sanh và TBA 35kV Khe Sanh, đóng điện năm 1994; Trạm biến áp 35kV Mỹ Chánh đóng điện năm 1994; Đường dây 35kV Huế - Tân Mỹ và TBA 35kV Tân Mỹ, đóng điện năm 1994; Đường dây Ái Nghĩa – Nông Sơn và TBA 35kV Nông Sơn, đóng điện năm 1994; Trạm biến áp 35kV Quế Trung đóng điện năm 1994; Đường dây 35kV Tam Kỳ - Thăng Bình và TBA 35kV Thăng Bình, đóng điện năm 1994; Trạm biến áp 35kV Tam Kỳ đóng điện năm 1994; Trạm biến áp 35kV Núi Thành, đóng điện năm 1994; Đường dây 35kV Núi Bút – Sông Vệ, đóng điện năm 1994; Đường dây 35kV Mộ Đức – Đức Phổ và TBA 35kV Đức Phổ, đóng điện năm 1994; Trạm biến áp 35kV Mộ Đức, đóng điện năm 1994; Trạm biến áp 35kV Biển Hồ, đóng điện năm 1994; Trạm biến áp 35kV Pleiku, đóng điện năm 1994; Đường dây 35kV Di Linh – Biển Hồ - Kon Tum và TBA 35kV Kon Tum, đóng điện năm 1994; Đường dây 35kV Pleiku – Chư Sê và Trạm biến áp 35kV Chư Sê, đóng điện năm 1994…
Bài II: Giai đoạn 1995-2007
Bước đi đột phá
Ngày 28-6-1995, Ban quản lý dự án các công trình điện Miền Trung (AMT) được thành lập theo Quyết định số 440/QĐ-ĐVN của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) trên cơ sở Ban Quản lý công trình điện trực thuộc Công ty Điện lực 3 chuyển về trực thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, quản lý xây dựng các dự án lưới điện từ 110kV trở lên khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Ngày 27-5-1994, Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 chính thức đưa vào vận hành, sau thời điểm này hệ thống điện Miền Trung được cung cấp chủ yếu từ 2 trạm biến áp 500kV Đà Nẵng, Pleiku và liên hệ với hệ thống điện miền Nam qua Đường dây 110kV Đa Nhim - Cam Ranh với sản lượng khoảng 1.164 triệu kWh và liên tục tăng dần qua từng năm. Cùng với tốc độ phát triển lưới điện truyền tải khu vực Miền Trung và cả nước, đội ngũ CBCNV của AMT qua từng năm đã được bổ sung, đào tạo, tăng cường cả về thể chất và trình độ chuyên môn để đáp ứng nhiệm vụ với quy mô và yêu cầu ngày càng cao của ngành Điện.

Từ năm 1999, đánh dấu những mốc son trong quá trình trưởng thành của AMT với các công trình được hoàn thành, như: Đường dây 500kV Yaly – Pleiku, đóng điện năm 1999 là dự án cấp điện áp 500kV đầu tiên được giao cho AMT thực hiện quản lý dự án (thời điểm mà các Ban A miền khác mới quản lý dự án đến cấp 220kV); Đường dây 500kV Pleiku - Phú Lâm, đóng điện tháng 04-2004, góp phần quan trọng vào việc chuyển tải công suất qua lại giữa ba miền Bắc-Trung-Nam và tạo sự tin cậy, ổn định vận hành hệ thống điện 500kV của Việt Nam, đây là Đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 2 quy mô lớn mà AMT được giao quản lý dự án, vinh dự được Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải vào dự lễ khởi công và phát biểu: “Xây dựng đường dây 500kV thứ hai này là hết sức cần thiết, nhằm tải điện từ Nhà máy Thủy điện Yaly (có công suất 720MW) phục vụ cho chương trình công nghiệp hóa ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là Tp.HCM”; Đường dây 500kV Pleiku - Dốc Sỏi - Đà Nẵng, đóng điện tháng 11-2004 và Đường dây 500kV Đà Nẵng - Hà Tĩnh, đóng điện tháng 05-2005, giải quyết kịp thời tình trạng thiếu điện trên diện rộng cho Hà Nội và các tỉnh phía Bắc; các Đường dây 220kV mua điện Trung Quốc qua Hà Giang: Thanh Thủy - Hà Giang - Tuyên Quang, Tuyên Quang - Thái Nguyên và Đường dây 110kV kết hợp 220kV Sóc Sơn - Thái Nguyên đóng điện tháng 04-2007, Đờng dây 220kV Tuyên Quang - Bắc Cạn - Thái Nguyên đóng điện tháng 06-2008 là giải pháp mua điện từ Trung Quốc hữu hiệu và kịp thời nhất, đã "cứu" điện cho khu vực quanh Thủ đô Hà Nội trong năm 2007 và những năm tiếp theo ở thời kỳ Việt Nam thiếu điện nghiêm trọng.

Đối với các công trình Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 2, từ những giải pháp và cơ chế đặc biệt mà AMT đã đề xuất và được EVN chấp thuận trình Chính phủ cho phép thực hiện và các địa phương đồng tình ủng hộ; cộng với sự năng động, sáng tạo, kiên quyết trong quản lý điều hành, sự phối hợp chặt chẽ có hiệu quả của các Công ty Tư vấn thiết kế, Xây lắp, Truyền tải điện, Thí nghiệm, Điện lực, các địa phương và đơn vị liên quan nên đường dây 500kV mạch 2 đã hoàn thành, đưa vào vận hành vượt mức thời gian qui định và đảm bảo chất lượng. Kết quả, ngày 19-4-2004, Đường dây 500kV Pleiku - Phú Lâm đóng điện thành công, đảm bảo tiến độ; ngày 31-8-2003, Đường dây 500kV Pleiku - Dốc Sỏi - Đà Nẵng đóng điện vượt tiến độ giao 4 tháng; ngày 23-5-2005, Đường dây 500kV Đà Nẵng - Hà Tĩnh đóng điện, vượt tiến độ giao hơn 1 tháng và tiếp sau đó, ngày 24-5-2005, đường dây 220kV Vinh - Hà Tĩnh đóng điện, góp phần quan trọng trong việc nâng cao độ tin cậy và ổn định vận hành hệ thống điện quốc gia, đồng thời đưa điện kịp thời từ miền Nam ra Bắc để giải quyết tình trạng thiếu điện cho miền Bắc giai đoạn 2005-2009, khi chưa xây dựng hoàn thành các nguồn điện tại khu vực này. Đặc biệt, cung cấp với sản lượng điện khoảng 8 triệu kWh/ngày, giải quyết vấn đề thiếu điện ở Hà Nội và 26 tỉnh miền Bắc vào giờ cao điểm của hệ thống hoặc khi hồ chứa Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình xuống dưới mức nước chết.

Ngay sau khi được EVN giao nhiệm vụ quản lý điều hành các dự án đấu nối mua điện của Trung Quốc, gồm: Đường dây 220kV Thanh Thuỷ - Hà Giang - Tuyên Quang, Tuyên Quang - Thái Nguyên, cải tạo 1 mạch đường dây 110kV Thái Nguyên - Sóc Sơn thành mạch kép và nâng cấp mạch còn lại lên 220kV và Đường dây 220kV Tuyên Quang - Bắc Kạn - Thái Nguyên, AMT đã kiểm tra ngay tình hình thực hiện đầu tư để xác lập tiến độ chi tiết cho từng giai đoạn, từng hạng mục công việc của từng công trình, thành lập Ban chỉ đạo tiền phương thường trực trên tuyến để chỉ huy điều hành, cùng với Công đoàn Điện lực Việt Nam phát động phong trào thi đua để các đơn vị tham gia dự án cùng cam kết quyết tâm thực hiện hoàn thành theo đúng tiến độ, đề ra các biện pháp để quản lý điều hành có hiệu quả và phù hợp với từng giai đoạn cụ thể, động viên kịp thời các đơn vị tham gia dự án nỗ lực hết mình, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan ở Trung Quốc và Ban quản lý Nhà máy Thuỷ điện Tuyên Quang, giải quyết nhanh những vướng mắc phát sinh trên công trường và tập trung lực lượng để thi công các hạng mục đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của EVN, AMT phối hợp chặt chẽ có hiệu quả với các đơn vị tư vấn, xây lắp và các đơn vị liên quan nổ lực phấn đấu ngày đêm để trong vòng chưa đầy 10 tháng đã xây dựng hoàn thành, đóng điện đưa các công trình vào vận hành: Ngày 27-4-2007, đóng điện thành công 236km đường dây 2 mạch và 1 trạm cắt 220kV; ngày 14-12-2007, đóng điện đưa vào vận hành đường dây 220kV Tuyên Quang - Sóc Sơn; tháng 6-2008, đóng điện Đường dây 220kV Tuyên Quang - Bắc Cạn - Thái Nguyên đảm bảo chất lượng và vượt tiến độ được giao. Công trình đưa vào vận hành đã góp phần giải quyết kịp thời lượng điện năng thiếu hụt của miền Bắc vào mùa khô 2007 và trong các năm 2007-2009.

Ở giai đoạn này, AMT đã có những đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành Tổng sơ đồ giai đoạn IV, V, VI với việc quản lý xây dựng đưa vào đóng điện thành công hàng loạt công trình lưới điện tạo mạch vòng cấp điện áp 110kV và 220kV, mang lại hiệu quả cao, phục vụ kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, góp phần quan trọng trong việc tăng cường độ tin cậy và ổn định hệ thống truyền tải điện khu vực Miền Trung và cả nước, đồng thời giải quyết kịp thời tình trạng thiếu điện cho các vùng, miền khi chưa xây dựng hoàn thành các nguồn điện tại khu vực này và là nền tảng để kết nối lưới điện của các nước tiểu vùng và khu vực Đông Nam Á.
Các công trình trọng điểm do AMT quản lý dự án:
- Đường dây 500kV Đà Nẵng – Hà Tĩnh, đóng điện tháng 5-2005; Đường dây 500kV Pleiku – Dốc Sỏi – Đà Nẵng, đóng điện tháng 11-2004; Đường dây 500kV Yaly – Pleiku và Đường dây 500kV Pleiku – Phú Lâm, đóng điện tháng 04-2004.
- Trạm biến áp 500kV Đà Nẵng MR đóng điện tháng 06-2006; lắp đặt kháng bù ngang tại Trạm biến áp 500kV Pleiku cho đường dây mạch 2 Pleiku – Phú Lâm, đóng điện tháng 9-2005; mở rộng ngăn xuất tuyến tại Trạm biến áp 500kV Pleiku, đóng điện tháng 5-2000; xuất tuyến 220kV tại TBA 500kV Pleiku, đóng điện tháng 8-1999.
- Năm 2006, AMT đóng điện thành công Đường dây 220kV Xekaman 3 (Lào)– Thạnh Mỹ (Quảng Nam- Việt Nam) và Xekaman 1 (Lào )– Pleiku (Gia Lai - Việt Nam).
- Tổng số khối lượng đường dây giai đoạn 1995 - 2007 đã hoàn thành là: 2.922,72km (trong đó, đường dây 500kV: 1.232,76km; đường dây 220kV: 1.178,06km và đường dây 110kV: 512,5km).
- Tổng dung lượng máy biến áp đã hoàn thành là: 1.654MVA (trong đó, máy biến áp 220kV: 813MVA; máy biến áp 110kV: 841MVA).
Bài III: Giai đoạn 2008 đến nay
Những trận đánh lớn
Ngày 30-6-2008, Ban quản lý dự án các công trình điện Miền Trung (CPMB) được thành lập trực thuộc Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) theo Quyết định số 117/QĐ-NPT, với nhiệm vụ chính là quản lý dự án, tư vấn giám sát kỹ thuật, đền bù giải phóng mặt bằng, đấu thầu xây lắp, đấu thầu vật tư thiết bị, cung cấp, bảo quản, vận chuyển vật tư thiết bị,... cho các công trình lưới điện đến cấp điện áp 500kV trên khu vực Miền Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền Nam và miền Bắc. CPMB tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quản lý các dự án đường dây và trạm khu vực miền Trung & Tây nguyên, một số các tỉnh phía Bắc và phía Nam.
.jpg)
Đường dây 220kV A Vương I - Hòa Khánh và Trạm biến áp 220kV Hòa Khánh là công trình đầu tiên CPMB được EVNNPT giao ngay sau khi chuyển từ trực thuộc EVN về EVNNPT được đóng điện đúng tiến độ để đấu nối Nhà máy Thuỷ điện A Vương. Đây là dự án được Lãnh đạo EVN và EVNNPT đánh giá cao về sự chỉ đạo linh hoạt, quyết liệt của Lãnh đạo CPMB, sự đoàn kết gắn bó, sự phối hợp có hiệu quả của CPMB với Công ty Truyền tải điện 2 và các đơn vị tham gia dự án, đã vượt qua mọi khó khăn thử thách để hoàn thành nhiệm vụ, là mốc son khởi đầu của CPMB chuyển về trực thuộc EVNNPT.
Cũng trong giai đoạn này, Lãnh đạo EVNNPT đã giao nhiều công trình trọng điểm, cấp bách và CPMB đã hoàn thành đóng điện hàng loạt công trình đúng và vượt tiến độ giao.
Đối với các công trình cấp bách, trọng điểm, CPMB xác định được tầm quan trọng và ý nghĩa chính trị của dự án, vì vậy, đã phân công cụ thể trong Lãnh đạo và tập trung chỉ đạo các phòng chức năng đảm bảo xuyên suốt từ khâu thiết kế, phê duyệt, lựa chọn thầu, công tác đền bù giải phóng mặt bằng... đảm bảo tiến độ khởi công và đồng bộ trong quá trình thi công; thành lập các Ban chỉ đạo để thường xuyên có mặt trên công trình nắm bắt điều hành, xử lý kịp thời vướng mắc để công trình được triển khai thông suốt, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và tiến độ đề ra.
Do vậy, mặc dù trong quá trình quản lý điều hành có gặp nhiều khó khăn, do tình hình kinh tế đất nước có nhiều biến động đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình triển khai kế hoạch đầu tư xây dựng, khó khăn trong việc huy động vốn để thanh toán cho các Nhà thầu. Mặt khác, một số chế độ, chính sách trong công tác đầu tư xây dựng ban hành chưa đồng bộ, nhất là công tác đền bù giải phóng mặt bằng đã gặp phải một số khó khăn trong công tác quản lý điều hành (nhiều hộ dân không muốn ở lại dưới hành lang đường dây điện, một số hộ dân yêu cầu tăng đơn giá đền bù),... . Nhưng với sự chỉ đạo sát sao của EVNNPT, sự giúp đỡ của các Ban ngành, các địa phương và sự phối hợp chặt chẽ có hiệu quả của các đơn vị trong và ngoài ngành Điện, cùng với sự đoàn kết, nhất trí cao, nỗ lực phấn đấu không ngừng, quyết tâm vượt qua khó khăn, năng động sáng tạo và sự chuẩn bị ngay từ ban đầu, CPMB đã hoàn thành đóng điện các công trình vượt so với kế hoạch giao, đảm bảo đồng bộ kịp thời với tiến độ phát điện của từng tổ máy của Nhà máy Thuỷ điện Sơn La: Tháng 9-2012, đường dây 500kV Nhà máy Thủy điện Sơn La – Trạm biến áp 500kV Sơn La đã đóng điện vượt so kế hoạch hơn 3 tháng rưỡi, truyền tải kịp thời công suất tổ máy 1 hòa vào lưới điện Quốc gia đáp ứng một phần nhu cầu cung cấp điện của miền Bắc.

Dự án trạm biến áp 500kV Hiệp Hòa với qui mô đầu tư lớn, là dự án có qui mô công xuất lắp đặt lớn nhất từ trước đến nay gồm 2 máy biến áp với công suất mỗi máy là 300MVA. Ngay từ khâu thiết kế đã có nhiều vướng mắc do liên quan đến vị trí đặt trạm, công tác đền bù giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn khi diện tích phải thu hồi đất xây dựng quá lớn, hơn 17 héc- ta; việc lựa chọn thầu đòi hỏi thời gian chuẩn bị dài hơn, đặc biệt là các gói thầu máy biến áp, vật tư thiết bị trạm biến áp do một phần là qui mô gói thầu, đặc tính kỹ thuật và yêu cầu của tổ chức tài trợ vốn từ Ngân hàng phát triển Châu Á đã làm kéo dài thời gian thực hiện dự án; công tác vận chuyển vật tư thiết bị gặp nhiều trở ngại do điều kiện thời tiết khí hậu ảnh hưởng đến mực nước của các tuyến sông từ Hải Phòng về Hiệp Hòa, Bắc Giang. Tất cả những khó khăn trên đã làm kéo dài thời gian thực hiện của dự án. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo kịp thời của EVN, EVNNPT, sự phối hợp có hiệu quả của các bên trong quá trình thực hiện dự án, sự chia sẽ ủng hộ, đồng tình của địa phương và sự đoàn kết, nỗ lực, chủ động sáng tạo của tập thể CPMB, ngày 16-11-2012, công trình đã được đóng điệnvượt so với tiến độ giao là 45 ngày, đáp ứng kịp thời truyền tải cung suất của tổ máy số 4, tổ máy số 6 của Nhà máy Thủy điện Sơn La, góp phần to lớn vào việc ổn định cung cấp điện phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Công trình trạm biến áp 500kV Hiệp Hòa đã được EVN, EVNNPT chọn là công trình tiêu biểu gắn biển công trình chào mừng 57 năm ngày truyền thống ngành Điện Việt Nam (21-12-2011). Việc sớm hoàn thành đóng điện các công trình đồng bộ với Thủy điện Sơn La có ý nghĩa to lớn đã truyền tải cung cấp điện an toàn, liên tục, ổn định phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng của đất nước nói chung, của TP.Hà Nội và các vùng phụ cận nói riêng.
Đối với các công trình trọng điểm cấp điện cho Miền Nam, như: Đường dây 220kV Đăk Nông – Phước Long – Bình Long, CPMB đã chủ động cùng với các đơn vị liên quan nỗ lực phấn đấu, làm việc ngày đêm, thành lập các Ban tiền phương, cử đội ngũ cán bộ nòng cốt, có nhiều kinh nghiệm, có trách nhiệm liên tục bám sát công trình, nghiên cứu và đề xuất nhiều giải pháp khoa học, khắc phục khó khăn nhằm đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo chất lượng, hiệu quả của công trình, đồng thời chủ động phối hợp chặt chẽ với các Công ty Tư vấn, Xây lắp, địa phương và các đơn vị liên quan ngay tại hiện trường để kịp thời giải quyết các vướng mắc phát sinh, quyết tâm đóng điện đưa dự án đường dây 220kV Đăk Nông - Phước Long - Bình Long vào vận hành tháng 12-2012, góp phần nâng cao độ tin cậy và ổn định hệ thống điện và mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp lượng điện năng thiếu hụt cho Miền Nam ngay từ những ngày cuối năm 2012, khi mà bài toán giải quyết cấp điện bằng việc đưa sớm các dự án nguồn điện vào vận hành không đáp ứng kịp; công trình trọng điểm cấp bách Đường dây 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông, đóng điện tháng 5-2014, đã cung cấp kịp thời lượng điện năng thiếu hụt cho khu vực Miền Nam và Thành phố Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu mùa khô năm 2014, tạo tiền đề cho việc nhập khẩu điện từ Lào về Việt Nam và liên kết lưới điện 03 nước Việt Nam - Lào - Campuchia giai đoạn sau 2015, tăng cường liên kết lưới điện truyền tải ở cấp 500kV, góp phần đảm bảo vận hành hệ thống điện an toàn, kinh tế trong trường hợp cần có sự trao đổi điện năng ở mức độ cao giữa các vùng - miền trên cả nước.
Các dự án nâng cao khả năng mang tải, như: Đường dây 500kV Quảng Ninh - Hiệp Hòa, đóng điện tháng 7-2014 cùng với Đường dây 500kV Quảng Ninh - Thường Tín truyền tải công suất của cụm nhiệt điện Quảng Ninh - Mông Dương vào hệ thống điện quốc gia đã đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phụ tải của miền Bắc cũng như cả nước; Trạm biến áp 220kV Phong Điền đóng điện ngày 22-6-2018, được EVNNPT đánh giá cao về tiến độ, chất lượng, hiệu quả và đã quyết định gắn biển công trình thi đua chào mừng kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (01/7/2008 - 01/7/2018); Đường dây 500kV Dốc Sỏi – Pleiku 2, đóng điện 29-06-2018 và Đường dây 500kV Quảng Trạch – Dốc Sỏi đóng điện vào ngày 31-05-2022….
Đường dây 500kV Vũng Áng – Quảng Trạch, đóng điện 17-08-2022. Sau khi đóng điện mang tải, toàn bộ dự án Đường dây 500kV mạch 3 Vũng Áng - Quảng Trạch - Dốc Sỏi – Pleiku 2 được hoàn thành, tăng cường năng lực truyền tải của lưới điện 500kV liên kết các miền của hệ thống điện quốc gia, góp phần đảm bảo cung ứng điện cho miền Nam, trong trường hợp hệ thống điện miền Nam không đảm bảo cân đối cung - cầu nội vùng; đồng thời, tối ưu hóa sản xuất - truyền tải điện trong vận hành hệ thống điện Quốc gia.
Công trình Trạm biến áp 220kV Ninh Phước và đấu nối, đóng điện ngày 29-06-2020 (công trình được gắn biển chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Tập đoàn điện lực Việt Nam lần thứ III); Trạm biến áp 220kV Lao Bảo, đóng điện ngày 30-06-2021 và Đường dây 220kV Đông Hà – Lao Bảo đóng điện ngày 01-10-2021 được đưa vào vận hành, kịp thời giải toả nguồn năng lượng tái tạo.
Đường dây 500kV đấu nối nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 2 vào hệ thống điện Quốc gia, đóng điện ngày 27-07-2021;Trạm biến áp 500kV - 900MVA Nghi Sơn, đóng điện ngày 31-10-2021 giải tỏa công suất nhà máy nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2, góp phần đáp ứng nhu cầu cung cấp điện cho tỉnh Thanh Hóa và vùng phụ cận, đặc biệt đối với khu Kinh tế Nghi Sơn và các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Trạm biến áp 500kV Vân Phong và đấu nối, đóng điện ngày 28-11-2022, vượt tiến độ 27 ngày so với kế hoạch; Đường dây 500kV NĐ Vân Phong - NĐ Vĩnh Tân, Ðường dây 500kV đấu nối Trạm biến áp 500kV Thuận Nam vào Đường dây 500kV NĐ Vân Phong - NĐ Vĩnh Tân, đóng điện tháng 12-2022. Các dự án trên hoàn thành nhằm truyền tải công suất của Trung tâm Điện lực Vân Phong (trong đó có Nhà máy điện BOT Vân Phong 1) và công suất nguồn năng lượng tái tạo khu vực tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận vào hệ thống điện Quốc gia, góp phần đảm bảo cung ứng điện cho Miền Nam, tạo mối liên kết mạnh giữa hệ thống điện niền Trung và miền Nam, tối ưu sản xuất – truyền tải điện trong vận hành hệ thống điện Quốc gia.
Những thành công trong suốt 35 năm xây dựng và trưởng thành là công sức của các thế hệ cán bộ công nhân viên CPMB tiếp nối truyền thống; luôn nỗ lực, phấn đấu, nâng cao trình độ, kỹ năng; trách nhiệm, kỷ cương, tận tâm, nhân ái; có khát vọng, tầm nhìn chiến lược và là kết quả gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa doanh nghiệp EVNNPT./.
06/07/2023